Nữ quyền là gì? Các công bố khoa học về Nữ quyền
Nữ quyền là chính nguyên tắc và giá trị xã hội xác định quyền lợi và địa vị của phụ nữ, mà bất kỳ phụ nữ nào đều có quyền được đối xử công bằng, sở hữu tài sản,...
Nữ quyền là chính nguyên tắc và giá trị xã hội xác định quyền lợi và địa vị của phụ nữ, mà bất kỳ phụ nữ nào đều có quyền được đối xử công bằng, sở hữu tài sản, tự do lựa chọn nghề nghiệp, tham gia vào các quyết định chính trị và có những quyền tự do cá nhân cơ bản. Nữ quyền nhấn mạnh việc loại bỏ mọi hạn chế và phân biệt đối xử với phụ nữ dựa trên giới tính, và tạo ra một xã hội công bằng và tôn trọng đối với cả nam và nữ.
Nữ quyền là một phong trào xã hội và chính trị trên toàn cầu nhằm bảo vệ và thúc đẩy quyền lợi và địa vị của phụ nữ. Nó chủ trương rằng phụ nữ có quyền được đối xử công bằng và bình đẳng như nam giới trong mọi lĩnh vực của cuộc sống và xã hội, bao gồm gia đình, chính trị, nghề nghiệp, giáo dục và sức khỏe.
Nguyên tắc quan trọng của nữ quyền bao gồm:
1. Quyền đối xử công bằng: Nữ quyền đề cao quyền lợi của phụ nữ được xem xét công bằng như nam giới. Điều này bao gồm quyền được truy cập và chia sẻ tài nguyên, quyền công bằng về mức lương và cơ hội nghề nghiệp, quyền tham gia và đóng góp trong quyết định chung của cộng đồng và xã hội.
2. Quyền tự do cá nhân: Nữ quyền đấu tranh cho quyền tự do cá nhân của phụ nữ, bao gồm quyền tự quyết về cơ thể và sức khỏe sinh sản, quyền lựa chọn hôn nhân và tình dục, quyền tự do ngôn luận và tư tưởng.
3. Quyền tài sản: Nữ quyền tôn trọng quyền sở hữu và quản lý tài sản của phụ nữ, bảo vệ chúng khỏi bất kỳ sự kiểm soát hay khước từ bất công nào.
4. Quyền tham gia chính trị: Đây là quyền của phụ nữ tham gia vào các quyết định chính trị và cầm quyền. Nữ quyền khích lệ phụ nữ tham gia vào hoạt động chính trị với tư cách là cử tri, làm thành viên trong các tổ chức chính trị, và giữ các vị trí lãnh đạo quan trọng.
Nữ quyền thúc đẩy sự nhận thức và nỗ lực để loại bỏ mọi hạn chế và phân biệt đối xử dựa trên giới tính. Nó được xem là một yếu tố quan trọng trong việc xây dựng một xã hội công bằng, phát triển bền vững và tôn trọng quyền tự do cá nhân.
Dưới đây là một số chi tiết về nữ quyền:
1. Quyền bầu cử: Nữ quyền đấu tranh cho quyền của phụ nữ được bầu cử và được bỏ phiếu. Trước khi nữ quyền được công nhận và đảm bảo, nhiều quốc gia cấm phụ nữ tham gia bầu cử. Nhưng thông qua các cuộc chiến đấu và phong trào, phụ nữ đã giành được quyền bầu cử và tham gia vào quyết định chính trị. Chẳng hạn, năm 1920, Hoa Kỳ đã thông qua Đặc quyền bầu cử phụ nữ, mở ra cánh cửa cho phụ nữ trở thành người bầu cử.
2. Đàn áp bạo lực và quấy rối: Nữ quyền tôn trọng quyền sống và đảm bảo an toàn cho phụ nữ. Nó đấu tranh chống lại bạo lực gia đình, bạo lực tình dục và quấy rối. Phụ nữ có quyền được phòng vệ và bảo vệ khỏi bất kỳ hành vi nguy hiểm và xâm hại nào.
3. Giáo dục và phát triển: Nữ quyền tin rằng phụ nữ có quyền được nhận giáo dục và phát triển cá nhân. Nó cam kết đảm bảo rằng phụ nữ có cơ hội truy cập đầy đủ và bình đẳng vào giáo dục, bao gồm cả giáo dục cơ bản, giáo dục đại học và đào tạo nghề nghiệp. Điều này giúp phụ nữ phát triển tư duy, tăng cường kỹ năng và cơ hội làm việc.
4. Quyền sinh sản: Nữ quyền nhấn mạnh quyền tự quyết và quyền kiểm soát trong việc quyết định có con và cách nuôi dạy con cái. Phụ nữ có quyền truy cập thông tin và dịch vụ về sức khỏe sinh sản, quyền được hỗ trợ và tư vấn về kế hoạch gia đình, và quyền lựa chọn phương pháp tránh thai phù hợp và an toàn.
5. Quyền tự do và bình đẳng: Nữ quyền đại diện cho sự bình đẳng và quyền tự do dành cho phụ nữ. Nó đấu tranh chống lại các hạn chế xã hội và văn hóa đối với phụ nữ, bao gồm quyền tự do di chuyển, quyền lựa chọn nghề nghiệp và quyền tham gia vào các quyết định quan trọng trong cuộc sống.
Tuy nhiên, điều họ đấu tranh chưa hoàn toàn thực hiện được một cách toàn diện và công bằng ở mọi quốc gia. Một số vấn đề còn đối mặt như bất bình đẳng mức lương giữa nam và nữ, bạo lực học đường và địa chính trị của phụ nữ. Việc nâng cao nhận thức và hành động nhằm bảo vệ và thúc đẩy nữ quyền còn là một nhiệm vụ quan trọng trong xây dựng một xã hội nhân văn và công bằng.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "nữ quyền":
Bài tổng quan về tài liệu trong lĩnh vực bạo lực gia đình cho thấy rằng hai chủ đề chính của thập kỷ 1990 mang lại những hướng đi hứa hẹn nhất cho tương lai. Chủ đề đầu tiên là tầm quan trọng của việc phân biệt giữa các loại hình hoặc bối cảnh bạo lực. Một số phân biệt này là cốt lõi cho sự hiểu biết lý thuyết và thực tiễn về bản chất của bạo lực giữa các bạn đời, trong khi những phân biệt khác cung cấp các bối cảnh quan trọng để phát triển các lý thuyết nhạy cảm và toàn diện hơn, và một số khác có thể chỉ đơn giản là khiến chúng ta đặt câu hỏi về xu hướng tổng quát hóa một cách thiếu cẩn trọng từ bối cảnh này sang bối cảnh khác. Chủ đề thứ hai là các vấn đề kiểm soát, mặc dù đáng chú ý nhất trong tài liệu của nữ quyền tập trung vào nam giới sử dụng bạo lực để kiểm soát "những" phụ nữ của họ, nhưng cũng xuất hiện trong các bối cảnh khác, đòi hỏi phân tích tổng quát hơn về sự tương tác của bạo lực, quyền lực và kiểm soát trong các mối quan hệ. Ngoài hai chủ đề chung này, bài tổng quan của chúng tôi còn đề cập đến tài liệu về cách ứng phó với bạo lực, các tác động đối với nạn nhân và trẻ em của họ, cũng như các tác động xã hội của bạo lực giữa các bạn đời.
Cô lang thang trên đường phố, nhìn vào các cửa hiệu. Không ai biết cô ở đây. Không ai biết ông ấy đã làm gì khi cửa đóng. Không ai biết. (
Trái ngược với giả thuyết tân tự do rằng việc khởi nghiệp là một nỗ lực mở và dễ tiếp cận mà ở đó nỗ lực cá nhân một mình xác định phần thưởng và địa vị, đã có nhiều bằng chứng cho thấy có một sự thiên kiến giới tính tiềm ẩn nhưng bị khuất lấp trong diễn ngôn khởi nghiệp. Theo đó, phụ nữ thường được xem như những người đàn ông thiếu thốn và không hoàn thiện; tuy nhiên, mặc dù đã có nhiều lời kêu gọi sử dụng lý thuyết nữ quyền như một khung phân tích để chứng minh việc tái sản sinh sự phụ thuộc đó, vẫn có rất ít bằng chứng cho thấy điều này đã xảy ra. Trong bài viết này, chúng tôi đáp ứng lời kêu gọi đó bằng cách chỉ ra cách phân tích nữ quyền hậu cấu trúc tiết lộ những giả định về giới tính trong lý thuyết khởi nghiệp mà nhúng sâu các giả định dị tính hiện hành. Những giả định này hạn chế phạm vi nhận thức luận của nghiên cứu hiện tại, định vị phụ nữ như những chủ thể khởi nghiệp thất bại hoặc không muốn; vì vậy, trong bối cảnh vắng bóng lý thuyết nữ quyền, các phân tích này vẫn chỉ ở mức mô tả chứ không phải giải thích. Do đó, chương trình nghiên cứu khởi nghiệp hiện tại có nguy cơ rơi vào ngõ cụt nhận thức luận trong hoàn cảnh thiếu một góc nhìn phản xạ và phê phán để định hình ý tưởng về ai có thể là và những gì có thể là một doanh nhân. Cuối cùng, chúng tôi đã dựa vào các lập luận này để phản ánh các phương pháp hiện tại trong việc lý thuyết hóa trong lĩnh vực nghiên cứu khởi nghiệp rộng lớn hơn.
Trong vùng nhiệt đới, tỷ lệ đồng vị nặng của nước trong lượng mưa tỉ lệ nghịch với lượng mưa. Các quá trình vật lý nằm sau hiệu ứng lượng mưa này vẫn chưa được hiểu rõ và định lượng đầy đủ. Trong nghiên cứu này, các đồng vị bền của nước (H218O và HDO) đã được đưa vào một mô hình cột đơn bao gồm cả thông số đối lưu Emanuel. Chúng tôi điều tra các quá trình vật lý lien quan đến hiệu ứng lượng mưa và đề xuất một phương pháp luận để định lượng đóng góp tương đối của chúng. Chúng tôi tập trung vào các quá trình đối lưu, vì khuôn khổ lý tưởng của các mô hình cột đơn không cho phép chúng tôi xem xét ảnh hưởng của vận chuyển ngang quy mô lớn của khối không khí có chữ ký đồng vị khác nhau. Chúng tôi chỉ ra rằng hai loại quá trình chủ yếu giải thích hiệu ứng lượng mưa là: thứ nhất, tái bay hơi của mưa rơi và các trao đổi khuếch tán với hơi nước xung quanh; thứ hai, tái tuần hoàn hơi nước lớp dưới mây nuôi hệ thống đối lưu bằng các dòng đối lưu. Điều này làm nổi bật tầm quan trọng của việc thể hiện chi tiết các quá trình bay hơi mưa để mô phỏng chính xác thành phần đồng vị của lượng mưa trong vùng nhiệt đới. Sự biến đổi của thành phần đồng vị trên các khung thời gian khác nhau (từ vài ngày đến vài tháng) cũng được nghiên cứu bằng một minh hoạ một chiều của chiến dịch thực nghiệm Phản ứng Không khí - Đại dương kết hợp Toàn cầu Nhiệt đới (TOGA-COARE). Hiệu ứng lượng mưa được quan sát rõ nhất ở khoảng thời gian nội mùa hoặc dài hơn. Thời gian mà hoạt động đối lưu ảnh hưởng đáng kể đến thành phần đồng vị của lượng mưa liên quan đến thời gian lưu trú của nước trong các bể chứa khí quyển.
Bài báo đối diện với hai vấn đề, thứ nhất là câu hỏi về phụ nữ và tiêu dùng, thứ hai là ngành công nghiệp thời trang như một lĩnh vực nữ tính hóa. Trước tiên, lập luận là các nghiên cứu gần đây về tiêu dùng đã bị yếu đi do sự không chú ý đến các câu hỏi liên quan đến sự loại trừ khỏi tiêu dùng và sản xuất tiêu dùng. Sự chênh lệch thu nhập cũng như các câu hỏi về nghèo đói đã bị bỏ qua trong cuộc tranh luận này. Thay vào đó, sự chú ý chủ yếu đã được dồn vào các hệ thống ý nghĩa liên quan đến các mặt hàng tiêu dùng. Điều này đã dẫn đến một cảm giác thỏa mãn chính trị như thể tiêu dùng không phải là một vấn đề. Đối với hàng ngàn phụ nữ đang nuôi dạy trẻ em ở mức thu nhập hoặc thấp hơn mức nghèo đói, điều này rõ ràng là một vấn đề. Phần thứ hai của bài báo lấy ngành công nghiệp thời trang làm ví dụ cho một lĩnh vực mà các quan điểm về cả sản xuất và tiêu dùng hiếm khi được kết hợp với nhau. Điều này tạo ra một cảm giác tuyệt vọng chính trị liên quan đến việc cải thiện thực hành tuyển dụng trong lĩnh vực này, đặc biệt là đối với những phụ nữ lao động với mức lương rất thấp. Lập luận ở đây là nếu có sự kết hợp và tranh luận lớn hơn về ranh giới sản xuất và tiêu dùng, có khả năng sẽ dẫn đến các chính sách giúp cải thiện điều kiện làm việc trong lĩnh vực này, nơi mà phần lớn nhân viên trên toàn cầu là nữ giới.
Bài báo này trình bày những hiểu biết từ một dự án nghiên cứu về nghề mại dâm diễn ra ở khu vực Caribbean trong khoảng thời gian 1997–1998. Đầu tiên, nó tóm tắt ngắn gọn các chủ đề chung trong các nghiên cứu lịch sử và hiện đại về nghề mại dâm ở khu vực này, sau đó mô tả các mục tiêu, phương pháp và các xu hướng chính của dự án. Bài viết đặc biệt chú ý đến những sự khác biệt giữa các định nghĩa và trải nghiệm nghề mại dâm của các công nhân mại dâm nữ và nam, cũng như giữa các du khách tình dục nam và nữ, đồng thời mô tả các điều kiện trong ngành mại dâm ở Caribbean. Cuối cùng, bài viết xác định một số hệ quả từ sự phức tạp trong khu vực được phát hiện thông qua dự án nghiên cứu đối với lý thuyết nữ quyền về nghề mại dâm.
Bài viết này lập luận rằng đã có một bước ngoặt đáng kể trong diễn ngôn chính trị nữ quyền ở Cộng hòa Hồi giáo Pakistan. Tác giả cho rằng sự nổi lên của một chủ nghĩa nữ quyền mới – có nguồn gốc từ diễn ngôn Hồi giáo, không đối kháng, mang tính riêng tư và cá nhân hóa, với mục tiêu là ‘trao quyền’ cho phụ nữ trong Islam – không phải là một diễn biến hậu 9/11 mà thực sự là kết quả của các cuộc tranh luận chưa được giải quyết về tôn giáo trong phong trào phụ nữ tiến bộ. Điều này là do sự tiếp nhận các lập luận nữ quyền dựa trên tôn giáo bởi phong trào nữ quyền thế tục mạnh mẽ hơn trong những năm 1980 đã mở đường cho sự bi marginal hóa của chính nó bằng cách cấp phép nữ quyền cho những tiếng nói như vậy. Tác giả lập luận rằng làn sóng nữ quyền thứ hai có thể đã trở nên bị pha loãng trong hiệu quả và sự ủng hộ do các luật tôn giáo biệt phân, độc tài, sự NGO hóa, phân mảnh, sự phối hợp của nhà nước và các đảng chính trị theo cách tương tự như phong trào phụ nữ toàn cầu. Tuy nhiên, chính sự mâu thuẫn bên trong của các chiến lược chính trị cũng như danh tính cá nhân, Hồi giáo của các nữ quyền thế tục đã cho phép các nữ quyền Hồi giáo định nghĩa lại chương trình nghị sự nữ quyền ở Pakistan. Bài viết này nêu lên mối quan ngại lớn hơn về sự nổi lên của một thế hệ nữ quyền hồi sinh Hồi giáo mới, những người tìm cách hợp lý hóa mọi quyền của phụ nữ trong khuôn khổ tôn giáo và làm cho chủ nghĩa nữ quyền thế tục trở nên không còn liên quan, trong khi chỉ định cuộc tranh luận về quyền của phụ nữ xung quanh lịch sử, văn hóa và truyền thống Hồi giáo. Nguy cơ là cuộc tranh luận như thế này sẽ dựa trên một nền tảng phân cực ‘tốt’ và ‘xấu’ đối với phụ nữ Hồi giáo, đến nỗi những phụ nữ tuân theo cách giải thích tự do về thần học sẽ phải đối mặt với những người theo một cách giải thích nghiêm ngặt và theo nghĩa đen và gắn bản thân mình với diễn ngôn tôn giáo-chính trị nam giới. Điều này chỉ có khả năng tạo ra một chủ nghĩa nữ quyền tôn giáo-chính trị mới, cực đoan, chiếm ưu thế trong tương lai chính trị của Pakistan.
Bài viết này khám phá cách mà sự đồng tồn tại của đặc quyền và bất lợi hình thành trải nghiệm của phụ nữ nước ngoài tại Trung Đông. Bài viết đặt ra vấn đề về sự đồng thời của việc thuộc về nhóm ưu tú (ví dụ như người nước ngoài) và nhóm thiệt thòi (ví dụ như phụ nữ) trong bối cảnh các nước thuộc Hội đồng hợp tác Vùng Vịnh. Dựa trên tài liệu về phụ nữ và xuất khẩu lao động, bài viết phân tích các câu chuyện của phụ nữ nước ngoài nhằm làm nổi bật sự phức tạp và đa chiều trong trải nghiệm của họ, đặt cuộc thảo luận trong khung khổ của các tổ chức theo giới tính. Bài viết kết luận rằng đặc quyền và bất lợi không thể tách rời trong cách mà trải nghiệm của phụ nữ nước ngoài diễn ra ở Trung Đông, và rằng các bối cảnh thể chế làm nổi bật tính không thể tách rời này nhằm điều chỉnh và duy trì trật tự xã hội giới tính. Bài viết góp phần vào việc hiểu biết tinh tế hơn về trải nghiệm của phụ nữ nước ngoài, thách thức những quan điểm chiếm ưu thế cho rằng nhóm này thường được hưởng đặc quyền nhờ vào tình trạng có tay nghề và di động của họ.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10